Thứ 6, 03-05-2024, 10:10 AM
[ Tin mới · Thành viên · Nội quy · Tìm kiếm · RSS ]
  • Page 1 of 1
  • 1
Diễn đàn tin tức hàng ngày » Thông tin trong ngày » Giáo dục » Lập miếu thờ thầy giáo
Lập miếu thờ thầy giáo
peheo9xDate: Thứ 5, 22-11-2012, 4:36 AM | Message # 1
Thành viên trẻ
Nhóm: Đã xác nhận là Thành viên
Số bài viết: 2055
Điểm: 2
Trạng thái: Không lên mạng
Lập miếu thờ thầy giáo
Cập nhật lúc 16:15, Thứ ba, 20/11/2012 (GMT+7)


“Ân sư từ”, nơi thờ 20 thầy giáo đã quá vãng ở xã Đồng Phú.


NDĐT - Trong ngôi miếu có tên tuổi, hình ảnh và tóm tắt thời gian dạy học của 20 thầy cô giáo đã vượt “mưa bom bão đạn” đến khai chữ cho vùng cù lao Đồng Phú. Miếu do một người dân địa phương lập nên có tên gọi “Ân sư từ”. Ngày ngày người dân địa phương đều đến hương khói. Vào dịp 20-11, họ còn làm cả mâm cỗ để cúng, có khi cả lễ nhạc như một ngày hội lớn.



Quý thay một tấm lòng

“Tôn sư trọng đạo” là truyền thống quý báo của dân tộc ta. Nhưng có lẽ ít có kiểu tôn kính những người thầy giáo đã quá vãng như cách của ông Nguyễn Hồng Tâm ở Vĩnh Long. Lập một bổn miếu trang nghiêm có tên gọi “Ân sư từ”, ngày ngày hương khói để ghi nhớ công ơn những người đã gieo cái chữ ở xứ cù lao này từ thời Pháp thuộc.

Ông Nguyễn Hồng Tâm, sinh năm 1946, quê quán ở làng Hòa Ninh cũ, tổng Bình Lương nay là ấp Phú Thuận 1, xã Đồng Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Điều làm chúng tôi ngạc nhiên là ông Nguyễn Hồng Tâm lại không phải là học trò của 20 thầy giáo trên. Nhưng tấm lòng của ông thật đáng quý. Hỏi động cơ nào khiến ông đi đến quyết định “lạ lùng” - theo cách nói của người dân địa phương. Ông bảo, khi sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh, chuyện học hành ở cái xứ cù lao này quá ư là khó. “Tôi thuộc thế hệ sau, không được học trực tiếp từ những thầy giáo ấy. Nhưng tôi được các anh, các chú “chia chữ”. Những người học trò của các thầy khi học được những con chữ ít ỏi về “chia” lại cho lũ trẻ quê tôi. Hồi ấy, tụi tôi đến tuổi đi học đều chăn trâu. Ngồi trên lưng trâu nhiều đứa đọc làu làu những bài đồng dao: “Con trâu già/ Một nắm xương khô, một nắm da/ Bao nhiêu cái ách đã từng qua…”. Nhiều người còn hát ru những bài đồng dao ấy. Tôi ngạc nhiên nên ấp ủ trong lòng là phải đi tìm hiểu ngọn nguồn của những lời bài hát ấy. Thế nhưng, tôi chưa làm được thì đã đi bộ đội năm 1966”, ông Tâm nói.

Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Nguyễn Hồng Tâm trở lại quê nhà. Cảm hứng của những câu hát ru ở quê nghèo năm xửa năm xưa lại giúp anh bộ đội phục viên rẽ sang con đường mới: sáng tác văn học và làm thơ. Vậy là anh có dịp thực hiện điều từ lâu ấp ủ. Trong những bữa tiệc ở hội hè, đình đám, mùa cấy, mùa gặt trên đồng hay những đêm đánh trâu đạp lúa làm rơm, nhiều người khoe kiến thức học vấn của mình. Nguyễn Hồng Tâm tình cờ nghe những bậc cao niên trong làng trong lúc “trà dư, tửu hậu” nhắc lại các vị “ân sư” với vẻ tự hào lắm. “Hồi đó, tao học thầy Hữu. Còn tao học thầy Huê. Nghe nói thầy của bác Hai Yên là ông Giáo Chánh, ở tận tỉnh Tân An. Hồi đó, mỗi lần lính xét trường, thầy Khảm cho tao nhảy cửa sổ trốn. Thầy Nhạc rất nghiêm khắc nên học trò nào cũng giỏi…”, những bậc cao niên trong làng hồi tưởng.

Nghe vậy, Nguyễn Hồng Tâm như mở cờ trong bụng. Anh lân la tìm hiểu, ghi chép và bỏ nhiều năm trời cất công đi tìm hiểu. Cuối cùng anh đã tìm được tư liệu, tên tuổi, thời gian đến dạy và đi của 20 thầy giáo ở Trường Elementaire Ecole Ninh Thuận (do Pháp lập năm 1919 - tiền thân của Trường tiểu học Đồng Phú 2 ngày nay).

Có tư liệu trong tay nhưng ông Tâm không biết phải làm thế nào để bày tỏ tấm lòng tri ân đối với các thầy giáo đã quá vãng. Sau nhiều đêm trằn trọc và được nhiều người góp ý, ông quyết định lập một ngôi miếu ngay trên phần đất của nền trường học cũ. Đó là vào năm 2000, ông Tâm dùng những đồng lương hưu ít ỏi để xây dựng ngôi miếu. Biết việc làm cao quý của ông, nhiều thế hệ học trò cũ, đồng hương, giáo chức và mạnh thường quân đã ủng hộ hơn 30 triệu đồng để xây dựng. “Thế nhưng, lúc này tôi lại có thêm nỗi lo khác. Vì lập miếu dễ nảy sinh mê tín dị đoan. Một lần gặp nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Trương Ngọc Tường (Tiền Giang) tôi mời về nhờ giúp đỡ. Ông Trương Ngọc Tường đã cho tôi ba chữ “Ân sư từ” thay cho miếu mạo. Rồi ông này còn tặng mấy mấy câu đối và cách bày trí, thể hiện nơi thờ tự”, ông Tâm bộc bạch.

Ngôi miếu có lối kiến trúc đơn giản nhưng cũng khá độc đáo và lạ mắt. Ba cửa mở ba hướng ra sông, kênh rạch. Trên nóc miếu có tạc hình quyển sách và cây bút. Ngay cửa chính là dòng chữ đề “Ân sư từ”. Hai bên cửa chính là hai câu đối do nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường đề bút: “Thầy cô cũ qua rồi, lời dặn dò vẫn còn văng vẳng/ Nền trường xưa còn đó, tuổi ngây thơ sống dậy ngậm ngùi”. Bên trong ngôi miếu, ngay giữ chính điện là bức bình phong đề bốn chữ “Tôn sư trọng đạo”. Phía dưới là dòng “Cung thỉnh chư vị ân sư” cùng tên tuổi của 20 thầy cô giáo đã quá vãng. Hai bên bức bình phong còn có hai câu đối hay: “Đức hạnh sáng soi đèn Bắc đẩu? Hiền tài nối tiếp nước Tiền giang”. Ngoài ra, còn có chân dung của 18 thầy cô giáo (có hai người không tìm được di ảnh) được họa trên gốm đỏ đặt trên bệ thờ.

Hàng ngày ông Nguyễn Hồng Tâm thường lui tới quét dọn và hương khói. Nhiều người dân địa phương cũng chung tay chăm sóc ngôi miếu này. Vào dịp 20-11, thân nhân các thầy cô giáo này còn tìm về để thắp hương, cúng viếng. Có khi họ làm mâm cỗ để cúng, trống nhạc rình rang như ngày hội.

Một thời gian nan gieo chữ

Đồng Phú ngày nay là một trong bốn xã của cù lao Minh, thuộc huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Cái xứ cù lao này đã nhiều thay đổi, làng xóm trù phú với những vườn cây ăn trái bạt ngàn. Thế nhưng, đường sá vẫn còn khó khăn nhiều lắm. Những con đường chỉ rộng chừng 1m, uốn lượn ngoằn ngoèo xuyên qua vườn quả của người dân. Thỉnh thoảng lại phải chạy trên những đoạn đường đất đá lô nhô, nhỏ như lối mòn. Qua phà An Bình, phải mất gần cả giờ đi xe máy chúng tôi mới tới được “Ân sư từ”.

Ông Nguyễn Hồng Tâm bảo: “Ngày nay có xe máy, có đường mà vẫn rất khó đi và mất thời gian như thế. Vậy thì hồi xưa, các thầy đi bộ, vượt đường mòn, đường rừng, vừa phải tránh mưa bom, bão đạn. Chưa kể là còn gặp phải rắn rết, bị cướp, mất mạng như chơi. Như vậy mới thấy tấm lòng của các thầy quý đến dường nào. Nếu không thì dân xứ này làm sao biết chữ quốc ngữ”.

Trường Elementaire Ecole Ninh Thuận thưở xưa được xây cất ngay vàm kênh Bà Cò nên người địa phương quen gọi là trường Bà Cò. Trường có ba lớp: đồng ấu, dự bị và cơ bản, tương đương lớp 1,2,3 hiện nay. Cái địa danh Ninh Thuận là do Pháp dồn hai thôn Phú Thuận và Hòa Ninh thành một để dễ kiểm soát. Ninh Thuận xưa đầy cách trở, cầu tre lắt lẻo. Nhà này sang nhà kia phải bơi xuồng. Cặp bờ kênh rạch có nhiều cây gừa, cây sộp tàn lớn sà ngang con rạch. Người dân lợi dụng các nhánh cây “sà ngang” ấy để làm …cầu qua kênh rạch, mỗi lần đi chuyền như khỉ. Ông Nguyễn Hồng Tâm cho biết, ngày xưa nơi đây là sông Đại Tuần, gối đầu lên sông Cổ Chiên, rộng lớn như biển cả. Gặp mùa gió Nam, gió chướng, là không qua sông được, nếu đi là phải đánh đổi bằng cả mạng sống. Bởi vậy, người bờ bắc sông Tiền có câu hát ví von: “Có con đừng gả cù lao/ Gặp khi sóng gió làm sao nó về”.

Trong cái khó khăn, cách trở ấy vẫn có những thầy cô giáo mang đầy nhiệt huyết đến vùng đất này khai chữ, mở mang dân trí cho xứ cù lao Minh. Họ đều là những người được đào tạo sư phạm chính quy ở Sài Gòn. Thầy giáo đầu tiên đến trường là ông Giáo Chánh ở Tân An; ông Giáo Khảm ở Giồng Ké, Vũng liêm, Vĩnh Long… Thầy Phan Văn Cam về trường năm 1926, rồi thầy Lê Văn Tình, Trần Văn Có, Vương Kim Liêng, Trần Gi Minh (1943-1944) là những nhà giáo yêu nước tham gia kháng chiến. Thầy Phan Văn Nhạc về trường lúc nổ ra cách mạng Tháng Tám, thầy Trương Ngọc Hữu là thủ lĩnh Thanh niên Tiền Phong….

Ngày Tết nhà giáo, những cụ già trong làng ngồi kể lại cho con cháu nghe những câu chuyện cảm động về tình nghĩa thầy trò ngày xưa của họ. “Có một ông thầy lần đầu tiên đội nón cối trắng, mặc âu phục, đến từng nhà năn nỉ từng gia đình cho con em đi học miễn phí. Những đứa học trò trốn học, thầy lặn lội đi tìm về. Những đứa ở dơ lần đầu tiên được thầy đưa ra bến sông tắm bằng xà bông. Từ kiến thức, lễ nghi, cách sống theo khoa học thầy đều tận tâm dạy bảo. Những lúc vắng người, thầy giảng riêng cho từng đứa nghe về lịch sử chống ngoại xâm về cách mạng… Điều mà chức trách Pháp biết được là bị tù đày chớ không phải chơi. Về sau, nhiều thế hệ học trò của thầy tham gia kháng chiến chống Pháp và Mỹ”, những bô lão hồi tưởng.
Bài và ảnh: BÙI QUỐC DŨNG


Ngày 22-11-2012
Thành viên đăng

peheo9x
 
Diễn đàn tin tức hàng ngày » Thông tin trong ngày » Giáo dục » Lập miếu thờ thầy giáo
  • Page 1 of 1
  • 1
Search: